Cha/ mẹ kế có thể nộp đơn bảo lãnh cho con riêng mà không cần nhận nuôi hợp pháp. Tuy nhiên, trước khi nộp đơn bảo lãnh, mối quan hệ cha/ mẹ kế - con riêng cần được tạo lập trước khi đứa trẻ 18 tuổi. Điều này có nghĩa là cha/ mẹ kế và cha/ mẹ ruột phải kết hôn trước khi đứa trẻ 18 tuổi.
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và Đức Phật A Di Đà
Linh Hoạt Với Phương Thức Giao Hàng Tận Tay của cơ sở Điêu Khắc Huỳnh Bá Thơ
Cơ sở Điêu Khắc Huỳnh Bá Thơ Cam Kết Đúng Chất Lượng Đá Mỹ Nghệ
Bộ Phận Hỗ Trợ Khách Hàng 24/7 Hotline: 09455 666 44
Chúng Tôi Đồng Hành Cùng Bạn Tạo Ra Sản Phẩm Tốt Nhất
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bốn con rồng châu Á, bốn con hổ châu Á hay bốn con rồng nhỏ là bốn nền kinh tế phát triển ở Đông Á, bao gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Hồng Kông. Các nền kinh tế này đã trải qua quá trình công nghiệp hóa thần tốc đồng thời duy trì được tốc độ tăng trưởng đặc biệt cao trong những năm từ thập niên 1960 cho đến đầu thế kỷ 21.
Đến đầu thế kỷ 21, nền kinh tế của các nước này đã phát triển, chuyển mình từ những nước công nghiệp mới thành những nền kinh tế có thu nhập cao, chuyên về các lĩnh vực kinh tế tri thức cần nhiều chất xám và có lợi thế cạnh tranh lớn. Hồng Kông và Singapore trở thành những trung tâm tài chính và cảng thương mại quốc tế hàng đầu của thế giới, trong khi Hàn Quốc và Đài Loan dẫn đầu về sản xuất linh kiện và thiết bị điện tử. Sự thành công trong công cuộc phát triển kinh tế của họ đã trở thành di sản, hình mẫu cho nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là nhóm Hổ mới châu Á nằm ở khu vực Đông Nam Á nghiên cứu áp dụng, học tập theo.[1][2][3]
Năm 1993, báo cáo của Ngân hàng Thế giới mang tên gọi The East Asian Miracle (Kỳ tích Đông Á) đã ghi nhận các chính sách tân tự do cùng với sự bùng nổ kinh tế, bao gồm việc duy trì chính sách định hướng xuất khẩu, thuế thấp và các nhà nước phúc lợi tối thiểu. Những phân tích về thể chế chính trị cho thấy rằng nhà nước có sự can thiệp ở mức độ đáng kể.[4] Một số nhà phân tích cho rằng các chính sách công nghiệp và sự can thiệp của chính phủ có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với báo cáo của Ngân hàng Thế giới.[5][6]
Bạn hãy bày tượng Phật ở cung Đông Nam của phòng khách, phòng lễ tân hoặc của toàn bộ ngôi nhà để gia tăng vận may tài lộc.
Bồ Tát Di Lặc được coi là vị Phật thứ 5, vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái đất sau khoảng 30.000 năm nữa, thay thế Phật Thích ca Mâu Ni. Trong Phật giáo Tây Tạng, Di Lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Ở thế giới hiện đại, hình ảnh vị Phật này hiện hữu khắp mọi nơi: cửa hàng, khách sạn, nhà riêng, chùa chiền.Trong tranh tượng, Phật Di Lặc thường ngồi trên ngai vàng, chân bắt chéo hoặc đặt xuống sàn, với hàm ý sẵn sàng đứng dậy đi giáo hóa chúng sinh. Ở những hình ảnh ban đầu, Di Lặc được mô tả như một vị hoàng tử thanh mảnh, tuấn tú, thường mặc trang phục hoàng gia Ấn Độ.
Tại Trung Quốc, Bồ Tát Di Lặc hay được trình bày với dáng vẻ mập mạp, hiền hòa, tự tại, miệng tươi cười, bụng phơi ra, trẻ con đeo xung quanh.Người ta tin rằng đó chính là hình ảnh của Bố Đại (tức là Hòa thượng Túi Vải), một Thiền Sư Trung Quốc ở thế kỷ thứ 10. Tương truyền, nhà sư có tướng người mập mạp, trán hẹp, bụng lớn, nói năng vô định, ngủ nghỉ tùy chỗ, thường dùng một cây gậy, quẩy một túi vải để đựng những vật người cúng dường. Ông được khâm phục vì có tài tiên tri thời tiết nắng mưa. Trước khi viên tịch, Hòa Thượng nói bài kệ:"Di Lặc, chân Di LặcPhân thân trăm nghìn ứcThường hiện cho người đờiNgười đời không ai biết"Sau khi viên tịch, người dân vẫn thấy Bố Đại mang túi vải xuất hiện ở châu khác. Tin rằng ông chính là hóa thân của Di Lặc, người đời sau thường thể hiện hình ảnh Phật Di Lặc dưới dạng một Bố Đại mập tròn vui vẻ.Phật Di Lặc trong Phong thủyCòn gọi là "Phật Cười", Di Lặc là biểu tượng tuyệt đối của hạnh phúc trong phong thủy. Theo truyền thuyết, niềm vui lớn nhất của vị Bồ Tát này là biến những buồn phiền, giận dữ, áp lực hay căng thẳng của con người thành hạnh phúc. Người ta tin rằng nụ cười nội tâm của Di Lặc mạnh tới mức nó luôn tỏa sáng trên khuôn mặt hiền từ và, Phật tới đâu ở đó có hạnh phúc.Di Lặc cũng được coi là biểu tượng của sự hài hòa, niềm vui vô tư lự. Chỉ cần nhìn ngắm khuôn mặt Phật, người buồn phiền cũng có thể thấy vui lên. Xoa bụng Phật được cho là mang lại vận may và sự tốt lành.Tượng trưng cho thịnh vượng, Di Lặc thường được gắn với các biểu tượng giàu sang như đồng tiền, thỏi vàng và chiếc túi được cho là chứa rất nhiều châu báu. Đôi khi Phật cũng mang theo quả Hồ lô, biểu tượng của sức khỏe và trường thọ hoặc chiếc Gậy như ý, biểu tượng của quyền lực. Người ta thích chọn tượng Phật có khuôn mặt cười hả hê, với mong muốn nhận được nhiều niềm vui và mọi sự như ý.Cách bài trí tranh và tượng Phật Di LặcBày tượng Phật đối diện với cửa chính: nhiều nhà phong thủy khuyên nên đặt tượng Phật Di Lặc ở độ cao khoảng 1m, nhìn thẳng ra cửa nhà. Vị trí này được cho là giúp Phật biến toàn bộ khí vào nhà thành năng lượng tốt. Nếu không có được vị trí lý tưởng nói trên, hãy bày tượng ở một chiếc bàn cạnh tường hoặc ở góc xa nhất của phòng, đối mặt với cửa chính.Đặt tranh hoặc tượng Phật ở cung Đông của ngôi nhà hay phòng khách để tạo sự hài hòa cho cả gia đình và hóa giải mọi rắc rối, cãi cọ.Bày tượng Phật ở cung Sinh Khí của bạn để tăng vận may tài lộc, sức khỏe và thành công.Bày tượng Phật ở cung Đông Nam của phòng khách, phòng lễ tân hoặc của toàn bộ ngôi nhà để gia tăng vận may tài lộc.Với những người làm việc trong môi trường cạnh tranh, ví dụ người nắm giữ những vị trí chủ chốt của công ty, các chính trị gia… đặt Phật Di Lặc ở nơi làm việc hoặc tại nhà giúp mang lại may mắn và loại bớt sự thù địch. Hình ảnh của Phật cũng giúp tâm trí minh mẫn và giảm bớt căng thẳng.Đặt tượng Phật trong xe ô tô giúp giảm bớt lo âu, tránh tai nạn và mang lại tin vui.Bày tượng Phật ở bàn làm việc để giảm bớt căng thẳng và tranh cãi với đồng nghiệp, đồng thời giúp bạn hoàn thành công việc tốt hơn.Học sinh muốn đạt thành tích cao có thể đặt tượng Di Lặc trên bàn học để tăng cảm hứng học tập.Tượng Phật Di Lặc là một vật phẩm hết sức hữu hiệu giúp hóa giải Tam Bích (số 3 - sao cãi cọ). Màu vàng của tượng (đại diện cho hành Kim) sẽ tiêu diệt năng lượng Mộc của Tam Bích. Trong năm 2012, ngôi sao cãi cọ này nằm ở cung Tây Nam ngôi nhà của bạn.Phật Di Lặc có thể là món quà lý tưởng cho bất cứ dịp vui nào. Với người đang gặp nhiều rủi ro, đây cũng là món quà hết sức ý nghĩa.Chú ý: Không bày tượng Phật trong phòng tắm, nhà bếp, phòng ngủ hay đặt trực tiếp trên sàn nhà.
B. Con người luôn có nhu cầu cảm thụ và thưởng thức cái đẹp, nhà văn bằng tài năng đã thể hiện cái đẹp của cuộc sống, của con người vào trong tác phẩm của mình giúp người đọc cảm nhận, rung động.
NSGN - Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miền thế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai, phần lớn người ta thường nhắc đến đầu tiên là Bồ-tát Di Lặc, hình ảnh vị Bồ-tát Đại sĩ được tôn thờ phổ biến trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền. Danh hiệu Ngài vốn không chỉ quen thuộc đối với Phật tử Đại thừa, mà cũng xuất hiện rất nhiều trong kinh điển Pāli thuộc bộ phái Theravāda.
“Di Lặc 彌勒”, tiếng Sanskrit gọi là Maitreya(Pāli: Metteyya), ngài Huyền Tráng phiên âm là: Mỗi-đát-lị-da 梅呾利耶, dịch là Từ Thị 慈氏, xưa phiên là Xưng (Di?)-đế-lệ 稱帝麗 hay Di-lặc 彌勒, thảy đều nhầm với tiếng Sanskrit.
Về danh hiệu “A-dật-đa 阿逸多” cũng gọi A-di-đa, hay A-thị-đa, Sanskrit = Pāli: Ajita, Hán dịch: Vô Năng Thắng 無能勝. Danh hiệu này các thư tịch ghi nhận không đồng nhất:
- Truyền thống bộ phái: Căn cứ vào các tài liệu Hán tạng, đại biểu là Trung A-hàm 13, kinh 66. Thuyết bản1, đơn hành bản tương đương: No. 44, Cổ lai thế thời kinh, cho thấy trong Phật giáo bộ phái, A-dật-đa (Ajita) và Di Lặc (Mettaya), là hai nhân vật khác nhau, cả hai vị này đều là Tỷ-kheo trong chúng Thanh văn được Phật Thích Ca thọ ký, một vị làm vua Chuyển luân và một vị làm Phật.
- Truyền thống Đại thừa: Căn cứ Hán dịch, kinh Pháp hoa 6, phẩm Tùy hỷ công đức2, Đức Phật gọi Di Lặc là A-dật-đa (Ajita). Điểm này cũng được thấy tương đương trong thủ bản Saddharmapuṇḍarīkasūtram bằng tiếng Sanskrit3, tức đồng nhất hai nhân vật là Di Lặc và A-dật-đa thành một4.
Về kỷ nguyên của Đức Phật Di Lặc, trong Trường A-hàm 6 - kinh Chuyển luân vương tu hành nói rõ:
“Trong lúc nhân loại sống tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới gả chồng, và có chín thứ bệnh (…) Vào thời kỳ ấy thì có Đức Phật ra đời hiệu là Di Lặc Như Lai.”5
Huyền ký này cũng được tìm thấy tương đương trong kinh 26, Cakkavatti (Chuyển luân vương)6 thuộc Dīgha-nikāya:
“Khi tuổi thọ loài người lên đến tám vạn tuổi, bấy giờ có Thế Tôn hiệu là Di Lặc xuất hiện ở đời”.
Hệ Pāli còn có một bản thi tụng nhan đề: Anāgatavaṃsa (Đương lai ký), kể riêng về chuyện Đức Phật Di Lặc đương lai, được nói là do Trưởng lão Kassapa soạn; tài liệu Journal of the Pāli Text Society, 1886.
Huyền ký tương tự cũng được nói đến trong Trung A-hàm 13, kinh 66, Thuyết bản. Ở kinh này có thêm chi tiết khác:
Sau khi nghe Đức Thế Tôn huyền ký về sự xuất hiện của một Chuyển luân vương tên Loa7, bấy giờ trong hội chúng có một vị Tỷ-kheo tên là A-di-đa8 đứng dậy bạch Phật, ông muốn trong tương lai sẽ là vị Chuyển luân vương đó: “Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, con sẽ có thể được làm vua, hiệu là Loa, là Chuyển luân vương”9. Ước nguyện này bị Phật khiển trách: “Ngươi là kẻ ngu si, chỉ nên chết thêm một lần, sao lại mong một lần tái sanh nữa”10. Tỷ-kheo này bị quở trách, vì không mong cầu chấm dứt bóng tối của đêm dài sinh tử, chứng nghiệm vô thượng Niết-bàn; lại muốn tái sinh nhiều đời kiếp nữa để làm vua chúa. Sau đó Phật lại huyền ký về sự xuất hiện của vị Phật tương lai hiệu Di Lặc, trong triều đại Loa Chuyển luân vương. Bấy giờ Tôn giả Di Lặc cũng hiện diện trong hội chúng, đứng dậy chắp tay bạch Phật, phát nguyện sẽ là vị Phật được huyền ký đó: “Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ mạng đến tám vạn tuổi, con sẽ thành Phật hiệu là Di Lặc Như Lai”11. Phát nguyện này được Thế Tôn tán thán: “Lành thay! Lành thay! Di Lặc, ngươi phát tâm cực diệu là lãnh đạo đại chúng”12. Ngay khi ấy, Đức Thế Tôn dạy ngài A Nan mang ra chiếc y được dệt bằng kim tuyến do bà Kiều Đàm Di hiến cúng Phật, trao cho Di Lặc: “Này A Nan, ngươi hãy lấy tấm y được dệt bằng sợi tơ vàng mang lại đây. Nay Ta muốn cho Tỷ-kheo Di Lặc”13. Tuy ước nguyện tái sinh nhiều đời nữa, nhưng Di Lặc được Phật khen ngợi, vì ước nguyện quảng đại: “Vì muốn cứu hộ thế gian và mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong an ổn khoái lạc (cho thế gian)”14.
Tuy có một vài điểm sai khác giữa các truyền thống kinh điển, nhưng điểm được thừa nhận chung và phổ biến: Tỷ-kheo Di Lặc là vị Phật tương lai, sau một thời gian dài, kế tiếp Đức Phật Thích Ca để tuyên thuyết và truyền thừa Chánh pháp. Hiện tại, Ngài đang là Bồ-tát trú tại cung trời Đâu Suất (Tuṣita)15. Sự hiện hữu này được kinh điển gọi là nhất sinh bổ xứ Bồ-tát16, hay nhất sinh sở hệ Bồ-tát17. Phật giáo Bộ phái và Đại thừa đều chấp nhận quan điểm này. Địa vị đã chứng nghiệm của Ngài hiện tại: avaivartya-bhūmi, Hán dịch là A-duy-việt-trí địa hay A-bệ-bạt-trí địa (bất thối chuyển).
Khảo sát về danh hiệu “A-dật-đa 阿逸多”
Bài khảo luận này dành riêng một mục để khảo sát về danh hiệu A-dật-đa, vì như đã nói ở phần 1, danh hiệu này các truyền thống ghi nhận không đồng nhất.
“A-dật-đa”, tiếng Sanskrit: Ajita, Pāli: Ajita,Tây Tạng: Mi tham pa. Hán phiên âm:A-dật 阿逸, A-thị-đa 阿嗜多, A-thị-đa 阿恃多, A-chế-đa 阿制多, A-di-đà 阿夷陀, A-thì-đa 阿時多, A-di-đầu 阿夷頭, A-dật-đa阿逸多, A-thệ-đảm 阿誓擔, Kha-dật-đa 呵逸多, A-di-đa 阿夷多, Ai-di-đà 哀駘它 v.v… Dịch là: Vô thắng 無勝18Vô năng thắng 無能勝19, Vô tam độc 無三毒20, Thiên thắng天勝.
Từ Ajita trong tiếng Sanskrit và kinh tạng Pāli là danh hiệu của nhiều nhân vật khác nhau, nên khi truyền sang Trung Quốc nó không được phiên âm một cách thống nhất. Thậm chí cùng một người mang tên Ajita, nhưng văn bản Trung Quốc có đến ba bốn từ phiên âm khác nhau, tùy theo nhận thức của dịch giả. Dưới đây là sự khảo sát những nhân vật chính yếu, khác nhau, cùng mang danh hiệu Ajita xuất hiện trong văn học Phật giáo.
Trung A-hàm 13 (kinh Thuyết bản)21, Hiền ngu kinh 1222 ghi nhận A-dật-đa là danh hiệu một vị đệ tử Phật được huyền ký sẽ trở thành vị Chuyển luân vương tên Loa23. Đồng thời kinh cũng ghi rằng có Tôn giả Di Lặc, cũng là đệ tử Phật Thích Ca, được huyền ký trở thành Phật Di Lặc.
Như thế, A-dật-đa và Di Lặc từ nguyên ủy là hai nhân vật khác nhau cùng là đệ tử Phật. Sự kiện này, được xác nhận cụ thể trong văn hệ Pāli:
- Sutta Nipāta (kinh Tập) có kinh Tissametteyya (Đế-tu Di Lặc24, Tissametteyyamāṇavapucchā (câu hỏi của Đế-tu Di Lặc)25 và Ajitamāṇavapucchā (câu hỏi của A-dật-đa)26 xác định sự khác nhau như vậy giữa A-dật-đa và Di Lặc.
- Sutta Nipāta 5.1, có Vatthugāthā27còn ghi rằng họ là hai Phạm chí đệ tử của Bāvari:
mười sáu người đệ tử Bà-la-môn:
- Theragāthāpāḷi (Trưởng lão kệ) bài kệ 20. Ajitattheragāthā, do Ajita là tác giả28.
- Aṅguttaranikāya (Tăng chi bộ) có kinh Ajita29, thuật lại Tăng sĩ Ajita hỏi Đức Phật: Thế nào là lời nói đúng pháp? Thế nào là lời nói phi pháp?
- Apadāna (1. 397) kể về Thượng tọa Ajita và tiền thân của Ajita dưới thời Thế Tôn Padumuttara được huyền ký sẽ trở thành đệ tử của Thế Tôn Gotama.
Như vậy, căn cứ các thư tịch được liệt kê ở trên, cùng với nền văn học chú giải của hệ Pāli, chúng ta có thể phác họa lại hình ảnh Ajita như sau:
Ajita thuộc giai cấp Bà-la-môn, sinh ra tại Śrāvastī (Xá-vệ). Cha làm quan thời vua Kośalā, lớn lên Ajita trở thành một ẩn sĩ của Bāvari sống trong vùng Assaka và Mulaka, dọc theo bờ sông Godhāvari của Dakkhinajanapada (Cộng hòa miền Nam). Sau này, Ajita hội kiến Đức Phật, với tư cách ẩn sĩ, đã hỏi Phật về pháp và phi pháp (như được tường thuật trong kinh Ajita của Aṅguttaranikāya). Đến khi Bāvari nhờ Ajita đến thưa hỏi Đức Phật về việc bị vỡ đầu, Ajita được Phật giải đáp, rồi ông xin được xuất gia, tu tập và chứng quả A-la-hán.
Điểm cần chú ý ở đây là nhân vật Ajita này lại khác với Tissametteyya. Chính kinh Thuyết bản dẫn trên đã nói rõ Tôn giả A-di-đa (Ajita) và Di Lặc (Mettaya) là hai đệ tử của Phật Thích Ca. Đoạn kinh này cũng được Đại tỳ-bà-sa luận 17830, dẫn và giải thích, có hai nhân vật này khác nhau, một vị gọi là Bí-sô A-thị-đà 阿氏多, còn vị kia thì gọi là Bồ-tát Từ Thị 慈氏.
Như đã trình bày, mặc dù tên A-dật-đa và Di Lặc là để chỉ cho hai vị đệ tử khác nhau của Đức Phật. Nhưng trong Phật giáo Đại thừa, đã đồng nhất hai vị này thành một. Ngay từ thời La-thập, sự đồng nhất này đã xảy ra:
Chú Duy Ma Cật kinh 1 (Phật quốc phẩm), Tăng Triệu ghi lại quan điểm của La-thập: “Di Lặc là họ, A-dật-đa là tự, là con của một người Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc”31. Sự đồng nhất này sau đó đã trở thành một định lệ cho các chú sớ sau này:
- Nhất thiết kinh âm nghĩa 71, Đường, Tuệ Lâm soạn: “A-thị-đa, đây dịch là Vô thắng. Cựu dịch A-kỳ-đa, hoặc A-dật-đa đều là sai. Đó là tên đời nay của Di Lặc”32.
- A-di-đà kinh sớ của Khuy Cơ: “Bồ tát A-dật-đa, tân dịch dựa vào ‘Xưng tán Tịnh độ kinh’ dịch là Vô Năng Thắng hoặc gọi là Di Lặc, đây dịch là Từ Thị, do Ngài hay tu tập lòng từ, hay nhập định từ, nên gọi là Từ Thị, tu tập lòng từ tối thắng, nên gọi Vô Năng Thắng”33.
- Tân dịch Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh âm nghĩa 1: “A-dật-đa gọi cho đúng là A-chế-đa, đây dịch là Vô Năng Thắng”34.
Như vậy, theo truyền thống Đại thừa Phật giáo, A-dật-đa chính là tên chữ của Bồ-tát Di Lặc.
c) Tên vị A-la-hán thứ mười lăm trong mười sáu vị A-la-hán
Đại tạng kinh 49, số hiệu 2030, Đường, Huyền Tráng dịch, Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la sở thuyết pháp trụ ký, 1 quyển35 trang 12c7- 14c22, có kể một câu chuyện, tóm tắt như sau:
A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la ở nước Sư tử36, khi gần viên tịch đã nói cho đệ tử mình biết rằng, từ lâu Đức Thích Ca Thế Tôn đã dặn dò và ký thác mười sáu vị A-la-hán trở lại để hộ trì Chánh pháp, mà vị thứ mười lăm danh hiệu là A-thị-đa sẽ ở tại đỉnh Linh Phong cùng với 1.500 vị A-la-hán thân thuộc để hộ trì.
Huyền thoại mà Pháp trụ ký này nói tới, cũng thấy xuất hiện trong ĐTK Tây Tạng, thông trật đệ 64Wa, No.231, trang 1b1-112b7, Ḥphags-pa dkon-mchog sprin shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo; do Rin-chen ḥtsho và Chos-ñid tshul-khrims dịch37; Hán tương đương, ĐKT 16, số hiệu 0658, Bảo vân kinh 7, Lương, Mạn-đà-la-tiên dịch38.
Kể từ khi Huyền Tráng dịch Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la sở thuyết pháp trụ ký, tín ngưỡng về mười sáu vị A-la-hán này phát triển hưng thịnh và trở thành đề tài của nhiều tác phẩm hội họa và điêu khắc, cũng như văn học, thi ca, mà hiện nay ở Trung Quốc người ta đã tập thành trong La-hán đồ tán tập39. Tại đây, hình tượng La-hán A-dật-đa được vẽ thành một hình dáng khắc khổ, diện mạo già nua, má hóp vào, hai tay ôm đầu gối, dáng nhìn cuộc đời một cách thiểu não, nên Đức Thanh đã vịnh một bài thơ như sau (Lê Mạnh Thát dịch):
Ở Việt Nam, tín ngưỡng mười sáu vị A-la-hán này được phát triển không kém. Chùa Tây Phương (Hà Nội), hiện có tôn tượng mười sáu vị A-la-hán này rất nổi tiếng. Tại đây, tượng của vị A-la-hán A-dật-đa này được gọi là Di Lặc và điêu khắc đúng theo hình mẫu Đức Phật Di Lặc, tức diện mạo vui vẻ, đầy đặn, bụng phệ, ngực để trần, hình ảnh khác hoàn toàn với những hình vẽ La-hán này tại Trung Quốc40.
Bồ-tát Di Lặc dạy Thiện Tài phát Bồ-đề tâm
Bồ-đề tâm 菩提心, tiếng Sanskrit gọi là Bodhicitta, Tib.byang chub sems, nói đủ là anuttara-samyak-saṃbodhi-citta: vô thượng bồ-đề tâm 無上菩提心, hay 阿耨多羅三藐三菩提心 a-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề tâm, tức tâm nguyện thành tựu sự giác ngộ tối thượng:
“Bồ-đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm, giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ-đề tâm, đó là ý chí kiên cường bất khuất của một người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc của tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta.”41
Do vậy, lời Phật dạy, chúng ta cần ghi nhớ:
“Vui cười gì, thích thú gì, giữa ngọn lửa không ngừng thiêu đốt?
Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm ngọn đuốc?”42
Không có tâm nguyện Bồ-đề đó, không có ý chí giác ngộ đó, thì quả vị Phật thừa không thể kỳ vọng được, cũng không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày và sự an lạc và giải thoát trong hiện tại chỉ là một miền đất hứa xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường, mà không bao giờ có thể tìm thấy trong thế gian này.
Nhưng tâm nguyện Bồ-đề chỉ có thể được phát khởi khi gốc rễ của tín tâm đã được gieo trồng cẩn thận. Ngài Nāgārjuna trong Đại trí độ nói: “Phật pháp như đại hải, có thể vào bằng tín, có thể vượt qua bằng trí”43, và cũng trong luận này ngài đã minh giải về ý nghĩa của Bồ-đề tâm: “Vị Bồ-tát sơ phát tâm, lấy Vô thượng Bồ-đề làm đối tượng, nói rằng: Mong tôi sẽ thành Phật. Đó gọi là Bồ-đề tâm.”44
Khi đề cập về ý nghĩa độc đáo của Bồ-đề tâm và phát Bồ-đề tâm, có lẽ không giải thích nào lý thú về đề tài này hơn kinh Hoa nghiêm, thông qua sự thuyết giảng của Bồ tát Di Lặc cho Thiện Tài đồng tử:
“Bồ-đề tâm là hạt giống của hết thảy Phật Pháp. Bồ-đề tâm là ruộng phước vì nuôi lớn pháp bạch tịnh. Bồ-đề tâm là cõi đất lớn, vì nâng đỡ hết thảy thế gian. Bồ-đề tâm là tịnh thủy, vì rửa sạch tất cả cáu bợn phiền não, Bồ-đề tâm ví như gió lớn, vì nó thổi khắp thế gian không bị cản ngại; Bồ-đề tâm ví như lửa lớn, vì nó có khả năng thiêu rụi hết thảy rừng củi tà kiến; Bồ-đề tâm ví như mặt trời thanh tịnh, vì nó soi chiếu khắp cả thế gian; Bồ-đề tâm ví như trăng rằm, vì các pháp thanh tịnh đều viên mãn; Bồ-đề tâm ví như ngọn đèn sáng, vì có khả năng phóng ra các loại ánh sáng Chánh pháp; Bồ-đề tâm ví như mắt sáng, vì thấy hết thảy cùng khắp mọi chốn an nguy; Bồ-đề tâm ví như con đường lớn, vì khiến tất cả đều được đi vào kinh thành đại trí…”45
Thiết lập và toàn thiện Bồ-đề là cơ sở thành tựu bất khả tư nghị nguyện lực của Bồ-tát hàng Pháp thân, nghĩa là những ai đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, đã trải qua một thời gian dài tu tập, tích lũy được những kinh nghiệm và hành trang thiết yếu, sẽ thấy rõ được thể tính của thế gian, thông đạt sâu xa giáo nghĩa, thể nhiệm được Pháp tính siêu nghiệm.
Để hiểu rõ về tính đặc sắc của Bồ-đề tâm như được diễn tả trong kinh Hoa nghiêm (dẫn trên), chúng ta có thể đọc thêm một đoạn khác trong phẩm “Nhập pháp giới”, đoạn Bồ-tát Di Lặc khen ngợi Thiện Tài đồng tử:
“Với những kẻ trôi nổi trong bốn dòng thác lũ, con người chân thật này muốn làm con thuyền đại pháp đưa chúng sinh vượt qua biển cả. Với những kẻ chìm ngập trong vũng lầy của kiến chấp, người này muốn làm chiếc cầu đại pháp. Với những kẻ tối tăm ngu dốt, người là ngọn đèn đại trí. Với những người lạc lối trong sa mạc sanh tử, người muốn làm kẻ chỉ bày lối đi của bậc Thánh…”46
Tượng Di Lặc Nhật Bản, thuộc triều đại Asuku
Sau khi Bồ-tát Văn Thù giới thiệu Bồ-đề tâm và chỉ thị Nhất thừa đạo, Thiện Tài trải qua năm mươi mốt địa tích, tham vấn đạo lý giác ngộ và yếu chỉ thực tập trên quá trình tu chứng của Đại thừa với các vị Đại sĩ. Trong hành trình đó, chàng thanh niên ấy hội kiến Bồ-tát Di Lặc, lại một lần nữa được nghe giảng luận về Bồ-đề tâm, bấy giờ bằng chí nguyện thâm thiết của mình, Thiện Tài đồng tử đã hoàn toàn thiết lập vững chắc trong chí nguyện Đại thừa, và đã thực hiện cụ thể chí nguyện ấy. Ước nguyện và hành vi của Thiện Tài, cả hai không còn cách biệt. Vì vậy, lời khen ngợi của Bồ tát Di Lặc, chính là sự tán dương tâm nguyện Bồ-đề và sự thành tựu tâm nguyện ấy của Thiện Tài đồng tử. Sau khi nghe những lời khen thưởng từ Bồ-tát Di Lặc, bản thân Thiện Tài hoan hỷ phấn chấn, cung kính chắp tay hướng về Bồ-tát Di Lặc, rồi bất giác nhìn lại hai bàn tay của mình thấy đầy những hoa thơm đang nở rộ. Đó phải chăng chính là hương hoa của sự thành tựu tâm nguyện Bồ-đề?
Kinh nói: “Bấy giờ Phật nói với Bồ-tát Di Lặc:Này Di Lặc, nay ta đem Pháp giác ngộ Vô thượng Chính đẳng Chính giác đã tập thành trong vô lượng kiếp phó chúc cho ông. Vào thời mạt thế, sau khi Phật diệt độ, ông nên dùng khả năng thần thông để giảng truyền rộng rãi những kinh như vậy nơi cõi Diêm-phù-đề, chớ để bị đoạn tuyệt.”47
Vì sao Đức Phật Thích Ca đem Chánh pháp phó chúc cho Đức Di Lặc Đại sĩ? Vì Di Lặc (Maitreya) là hiện thể của phẩm tính maitrī (Pāli mettā): lòng từ, nội hàm hiểu theo ngôn ngữ ngày nay là sự tử tế, hay lòng nhân từ độ lượng. Dựa vào phẩm tính này, nên trong hết thảy sự hóa độ chúng sinh, Ngài luôn dìu dắt họ bằng lòng từ, khiến họ phát Bồ-đề tâm, hướng đến Bồ-tát đạo. Hễ khi nào còn có chúng sinh sung mãn tâm từ khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, thì khi ấy Chánh pháp không thể bị đoạn diệt.
Vì Di Lặc là hiện thể của phẩm tính Ajita: “Bất khả chiến bại”. Chiến đấu với cái gì mà không bị chiến bại? Chiến đấu với phiền não của tự thân, chiến đấu với rắn độc: tham-sân-si, dẹp yên được độc tố nhiễm ô (Vô tam độc), đạt đến sự thanh tịnh và lòng từ không ai hơn được (vô năng thắng) và không bao giờ bị gục ngã dưới chân ma quân. Chánh pháp là đại biểu cho chân lý, là ngọn cờ của sức mạnh đánh bại phiền não. Hễ khi nào còn hiện thân của phẩm tính Aijta, thì khi ấy Chánh pháp không bao giờ đoạn tuyệt.
Cho nên việc lễ bái, tôn kính và hành trì danh hiệu Di Lặc, chính là hành trì theo những phẩm tính siêu việt của Ngài. Truyền thuyết, có một bài chỉnh cú luôn được gán cho Đức Phật Di Lặc:
Đức Phật Di Lặc không chỉ thường trú ở Thiên cung Đâu Suất xa xôi, mà Ngài luôn hiện hữu nơi tâm thức của những hữu tình có hành vi cử chỉ của lòng từ mẫn song vận với Bồ-đề tâm. Cho nên, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, có người phát triển tâm từ, thực hành hạnh hỷ xả, kiên lập chí nguyện thành tựu bốn vô lượng tâm từ - bi - hỷ - xả, thì lúc đó và nơi đó, có Đức Phật Di Lặc biến thể xuất hiện, hướng dẫn chúng sinh trực diện chiến đấu với ma quân phiền não, để họ không bao giờ bị chiến bại trước một chút phù danh, một chút lợi dưỡng hay những ân huệ dư thừa của thế tục. Lòng từ và sự chiến thắng ấy, là những đóa hoa hương sắc, là những biểu hiện cụ thể của một mùa xuân Chánh pháp, một mùa xuânmà dòng suối từ vẫn âm thầm tuôn chảy, làm cho Phật chủng Di Lặc cũng từ đó mà luân lưu bất tuyệt trên thế gian này.
(1) T01n0026, tr. 510a01. Xem kinh văn dẫn ở phần b. (2) T9n262, tr. 46b27. (3) Buddhist Sanskrit Texts, 6 (Vaidya, tr. 205): atha khalu bhagavān Maitreyaṃ...etad avoca: yaḥ kaścid Ajita kulaputro... (4) Thảo luận chi tiết vấn đề này, xem mục 3. (5) T01n0001, tr. 041c29. (6) PTS. D.iii. 76: Asītivassasahassāyukesu, bhikkhave, manussesu metteyyo nāma bhagavā loke uppajjissati. (7) Loa 螺. Pāli: Saṅkha (vỏ sò). (8) A-di-đa 阿夷多. Pāli: Ajita. Trong bản kinh này, A-di-đa (Ajita) và Di Lặc (Mettaya) là hai nhân vật khác nhau. (9) Bản Việt, Trung A-hàm 1, TT. Tuệ Sỹ dịch (2013), tr. 585. (10) ibid., tr. 585. (11) ibid., tr. 588-589. (12) ibid., tr. 589. (13) ibid., tr. 591. (14) ibid., tr. 592. (15) Đâu suất Thiên vương 兜率天王. Htr.: Đổ-sử-đa Thiên vương 睹史多天王. VCS: “Tầng thứ tư trong sáu tầng trời Dục giới. Đây dịch là Tri túc. Nghĩa là, hưởng thụ các dục lạc nhưng biết đủ một cách sâu xa.” VKN: Saṃtuṣitadevaputra. (Dẫn bởi Duy-ma-cật sở thuyết, bản Việt, Tuệ Sỹ, Ch.4, cht. 3). (16) skt. eka-jāti-pratibaddhā bodhisattvāḥ, xem cht. 16, dưới. (17) Nhất sinh sở hệ 一生所繫, Skt. ekajātipratibandha, Tib. skye ba gcig gis thogs pa, chỉ còn bị ràng buộc một đời hay một lần sinh nữa. Từ này không có tương đương trong bản Pāli. (18) La-thập dịch, Duy Ma Cật 1, T14, no. 475, p. 537b14; Tiểu phẩm Bát-nhã 8, T08, no. 227, p. 572a8. (19)Đại Bát-nhã 576, Huyền Tráng dịch,T07n0220gp.0975b18. (20) A Di Đà kinh nghĩa ký 1, Trí Nghĩ dịch, T37, no.1755, p.306b24. (21) Xem Cht.1, dẫn thượng. (22) T04, no. 202, p. 429c8tt. (23) Saṅkha, Nhượng Khư, Xem Cht.6, dẫn thượng. (24) Snp 4.7, Tissametteyya (Snp 160). (25) Snp 5.3, Tissametteyyamāṇavapucchā (Snp 199). (26) Snp 5.2, Ajitamāṇavapucchā (Snp 197). (27) Snp 5.1, Vatthugāthā (Snp 190). (28) Thag 1.20. Ajitattheragāthā, Thag 4. (29) PTS. A. 5. 229. (30) T27n1545, tr. 893c7. (31) T38, no. 1775, p. 331b8-9: 彌勒菩薩。什曰。姓也。阿逸多字也。南天竺波羅門之子. (32) T54, no. 2128, p. 768a20: 阿氏多 (常尒反此云無勝舊言阿耆多或作阿逸多皆訛也是彌勒今生名). (33) T37, no. 1757, p. 318b13-15: 阿逸多菩薩者,依新譯《稱讚淨土經》翻為無能勝或言彌勒,此云慈氏,由彼多修慈心多入慈定故言慈氏,修慈最勝名無能勝. (34) A091, no. 1066, p. 354a6: 阿逸多 (正云阿制多此曰无能勝也). (35) T49, No. 2030: 大阿羅漢難提蜜多羅所說法住記. (36) Nay là nước Tích Lan.(37) Tạng Peking (Thánh Bảo vân Đại thừa kinh, Ārya-ratnamegha-nāma-mahāyānasūtra), Mdo-sna-tshogs (dsu)1-121a. (38) T16n0658: 寶雲經 7, 梁曼陀羅仙譯. (39) 羅漢圖讚集 Rakan zusanshū / [Tetsujō sanhen], [Japan: s.n.], Bunkyū 2 [1862] [Japan: s.n.], 文久2 [1862], 3 quyển. (40) Ngoài ra còn có một số nhân vật khác có tên Ajita, nhưng không quan trọng nên không trình bày ở đây. (41) Giải thích bởi TT.Tuệ Sỹ, Thắng Man giảng luận (2012), tr. 34. (42) Dh. l46: Ko nu hāso kimānando, niccaṃ pajjalite sati / andhakārena onaddhā, padìpaṃ na gavesatha. Văn dịch dẫn bởi Thắng Man, ibid., tr. 34. (43) Đại 25, tr. 63a1. (44) Đại 25, tr. 362c28. (45) Cf. Gaṇḍa, tr. 39617ff. Bodhicittaṃ hi kulaputra bījabhūtaṃ sarvabuddhadharmāṇām / kṣetrabhūtaṃ sarvajagacchukladharmavirohaṇatayā, dharaṇibhūtaṃ sarvalokapratiśaraṇatayā, vāribhūtaṃsarvakleśamalanirdhāvanatayā, vāyubhūtaṃ sarvalokāniketatayā, agnibhūtaṃ sarvadṛṣṭyupādānakakṣanirdahanatayā, sūryabhūtaṃ sarvasattvabhavanāvabhāsanatayā, candrabhūtaṃ śukladharmamaṇḍalaparipūraṇatayā, pradīpabhūtaṃ dharmālokakaraṇatayā, cakṣurbhūtaṃ samaviṣamasaṃdarśanatayā, mārgabhūtaṃ sarvajñatānagarapraveśanatayā. Tham chiếu, Hoa nghiêm (Phật), quyển 59, Đại 9, tr. 775. (46) Gaṇḍa, tr. 3955: eṣa hi kulaputrāḥ satpuruṣaḥ sattvānāṃ catur oghottaraṇtāyai mahādānaṃ mahādharmanāvaṃ samudānetu-kāmo, dṛṣṭipaṅkanimagnānāṃ mahādharmasetuṃ sthāpayitu- kāmo, mohāndhakāraprāptānāṃ jñānālokaṃ kartukāmaḥ saṃsāra kāntārapranaṣṭānām āryamārgaṃ saṃdarśayitukāmaḥ. Cf. Hán dịch, Hoa nghiêm (Thật), Đại 10, tr. 429a8. (47) Duy-ma-cật sở thuyết, bản Việt, Tuệ Sỹ dịch, phẩm Chúc lụy, tr. 293. (48) X64, no. 1261, p. 408c10-11; X68, no. 1315, p. 273c2-3.
Là tổ chức liên chính phủ hàng đầu trong nỗ lực thúc đẩy di cư an toàn và có trật tự, IOM đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu của Chương trình Nghị sự 2030 thông qua các lĩnh vực can thiệp khác nhau, kết nối hỗ trợ nhân đạo và phát triển bền vững. Tại Việt Nam, IOM hỗ trợ người di cư thông qua các hoạt động tái hoà nhập, hỗ trợ và bảo vệ đa dạng.
Câu chuyện về cuộc đời Đức Phật rất nôm na, đơn giản sau những năm tháng dứt bỏ cuộc sống vàng son, bỏ lại sau lưng tất cả chỉ để tìm con đường thoát khổ thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Chỉ cần đọc một đoạn ngắn thôi, các bạn đã bỏ qua những điều cốt yếu cần hiểu, cần liễu ngộ. Người ta quen cách nghe thật nhiểu, biết thật nhiều, hiểu thật nhiều…theo kiểu “nuốt chữ” nhưng không bao giờ nghiền ngẫm để thấm thía, để liễu ngộ, học hỏi. Liễu tri chứ không phải tưởng tri. Hệt như cách thông thường mà họ thọ dụng thực phẩm, cứ nhồi nhét, cứ bổ sung bất kỳ thứ gì có thể, thành thử cơ thể cứ tăng thể trọng nhưng mang đầy mầm bệnh, thần kinh suy nhược, nghẽn tắt tuần hoàn….Toàn bộ cái nhân ấy đưa đến cái quả ấy là điều tất nhiên. Nhưng rồi cũng chính họ vướng víu với vòng tuần hoàn nhân quả đó một cách tự nguyện trong sự phát triển y học, khoa học, cùng với bao nhiêu thứ tà đạo, mê tín, bùa ngải, vong nhập, các đạo sĩ, pháp sư…Và khi ấy lại kêu lên rằng: Cuộc đời sao mà khổ quá.
Nhiều năm hoạt động trong tổ chức thiện nguyện Trường sinh học (TSH), tôi chứng kiến nhiều cái vòng lẩn quẩn trong cuộc mày mò tìm kiếm đó của con người mà tiêu biểu cuộc truy tìm con đường chữa bệnh và con đường giác ngộ, con đường thoát khổ.
Chữa bệnh thì đã rõ, TSH hay các phái thiền chữa bệnh đang phát triển như nấm sau mưa, kẻ đến, người đi nườm nượp mỗi ngày nhưng thực tế là “phước chủ may thầy”. Còn con đường giác ngộ thì thực đáng bàn. Người ta bị dẫn dắt bởi nhiều giáo lý mang tính lý thuyết, mù mờ, hư ảo thậm chí siêu nhiên, huyền bí để rồi chui vào mê cung cho đến khi bệnh tật, phiền não, tai ương… lại vội vàng chạy thầy, chạy thuốc, bổ đi khắp nơi, chạy vào TSH, chạy vào các pháp môn trị bệnh…Ngay trong bệnh viện, thì bóng dáng các sư thầy trong các khoa phòng, cấp cứu, hồi sức cũng đầy cả. Đừng nhầm lẫn ăn chay thì không bệnh, chỉ ít nguy cơ hơn người ăn thịt động vật mà thôi. Trong những người quanh tôi tôi có nói đến những nhầm lẫn này.
Chưa bao giờ người ta đặt ra câu hỏi rõ ràng, thiết thực khi được tiếp duyên, dẫn dắt, thuyết phục: Tu để làm gì? Có chữa được bệnh của tôi không? (Đây mới là câu hỏi quyết định). Có vượt qua được bốn nỗi khổ kiếp người không? Và bao giờ? Lộ trình ra sao? Bao lâu? Có qui trình rõ ràng không?...v.v…
Thực ra nếu bạn là người hiểu để hỏi thì cũng không có người đủ tầm để trả lời, hoặc ấp úng, loanh quanh, tìm lời để lừa mị bịp bợm mà chính họ cũng không hay là mình cũng đang bị lừa. Đó là điều có thật. Đang diễn ra. Diễn ra một cách hỗn loạn, ngang nhiên như thị phần thực phẩm chức năng, các loại tân dược, thảo dược cổ truyền, các loại thuốc được quảng cáo rầm rộ trên các trang mang xã hội.
Đức Phật không bệnh, không tìm đường chữa bệnh mà là sự tìm kiếm con đường vượt thoát tất cả những cảnh giới mà người chứng kiến mỗi ngày Sanh - Lão - Bệnh - Tử. Con đường mà Đức Phật tìm ra trong lịch sử loài người chưa từng có. Và sau khi chứng đắc, người đã đảnh lễ, đã công bố:
Con đường dứt trừ khổ đế, vượt thoát bệnh tật, phiền não, khổ ách đó không phải là lý thuyết không phải thứ giáo lý đang truyền tụng khắp nơi trên thế giới gọi là Đạo Phật. Chính Đức Thế Tôn đã vượt qua và truyền dạy lại cho 500 Tỳ kheo trong tăng đoàn. Cả 500 Tỳ kheo đều chứng đắc với quả vị tuy khác nhau, nhưng cả 500 Tỳ kheo đều có giải thoát, đều thoát khỏi chuyện bệnh tật, phiền não, khổ ách. Cho nên mọi lời nguỵ biện của tất cả sư thầy về giáo thuyết chung cứ nhắm mắt mà tu cho đến vô lượng kiếp là sự lừa mị, bịp bợm rất khó chấp nhận được mà những trang sử Đạo Phật cho thấy dấu vết tư tưởng của 750 Tỳ kheo (dự lưu) đã len vào thượng tọa bộ. Vì thế mà Đức Trưởng lão Thích Thông Lạc mỗi khi nói đến sự bịp bợm ông không tiếc lời công kích, phỉ báng.
Tôi không bệnh vực Trưởng lão mà thậm chí nói đến điều này, tôi nghĩ ngay đến tổn thất ngay trong gia đình mình khi tiếp cận Chánh Pháp. Chẳng qua đó là cách tiếp cận chân lý, cách hiểu, cách ngộ những lời Phật dạy mà người truyền đạt dù là bậc A-la-hán nhưng diễn thuyết vẫn là lời lẽ, ngôn từ của con người thế tục và vì lẽ ấy sự ngộ nhận là điều không tránh khỏi. Nói cách khác, theo tôi, không cần phải công kích, không cần phải tấn công vào thành trì vô minh làm gì. Cứ nói đến hướng đi đúng của chánh pháp, diễn đạt phương pháp thóat khổ, mọi chúng sanh ai đủ duyên thì tiếp nhận chưa đủ thì đành vây thôi. Sự việc tổn thất của tôi xin dành lại cho bài thiểu dục và ly dục.
Ở đây, tôi muốn nêu lên cái lộ trình mà Đức Trưởng lão đã nhắc đến nhưng dường như tất cả nhưng người đi sau do mãi mê truyền đạt giáo lý, mải mê gieo duyên mà quên mất cái mục đích chấn chỉnh, phục hưng chánh pháp của Trưởng lão. Việc phục hưng lại Chánh Pháp không phải việc giành thị phần, cố tăng cường hoằng dương, chiêu nạp môn sinh, tổ chức nhiều lớp học…mà vấn đề ở chỗ chỉ cần khẳng định được nơi đây là chánh Pháp.
Nó khác ở chỗ tổ chức vượt thoát nỗi khổ kiếp người chứ không phải chỉ là làm nên một ngôi chùa, thậm chí nó chẳng thể lộng lẫy bằng những cung điện, những khu du lịch tâm linh tiền tỉ, vài chục, vài trăm tỉ đang chen nhau trên khắp cả nước chỉ để chiêm bái, ngưỡng vọng sự sang trọng, uy nghi, kiêu sa, phù phiếm nhưng…nguồn lợi khủng từ cúng dường thì không hề phù phiếm chút nào.
Con đường mà Trưởng lão đã đi cũng lặp lại chính con đường đầy những nhầm lẫn của Đức Phật đã được nhắc đến với tên hai vị thầy đáng kính Alara Kalama và Uddaka Ramaputa để cuối cùng tất cả đều khẩn khoản: “Hiền giả hãy ở lại đây, chúng ta cùng chăm sóc cho hội chúng”. Trưởng lão đã đúng đắn khi quay trở lại với thầy Thanh Từ để trình bày sự chứng đắc, chia sẻ niềm vui mà Phật giáo đã đánh mất suốt hơn hai ngàn sáu trăm năm.
Để dựng lại những gì đã mất, Trưởng lão dày công soạn thảo cả thư viện với nhiều bộ sách: Đường về xứ Phật (10 tập), Những lời gốc Phật dạy (4 tập), Đạo đức làm người, Đạo đức giải thoát, 37 phẩm trợ đạo…cùng lúc với việc tổ chức lớp học với hầu hết tu sinh là những bậc tôn túc, chức sắc Phật giáo. Ngoài cái thư viện thực sự nói lên công sức phục hưng chánh pháp của Trưởng lão còn mãi đến ngàn sau, còn các lớp học, cứ nghe những clip pháp thoại Những bức tâm thư mà thương cho Ngài, thương cho nỗ lực không mệt mỏi đã không được đền đáp xứng đáng.
Trở lại với vị thầy cũ của mình, Trưởng lão khác với Đức Phật. Ngài đã được sự động viên, hỗ trợ hết lòng của người thầy cũ trước bao nhiêu là đố kỵ, hiềm thù, nhỏ nhen ganh ghét như thời Đức Phật nhưng rất tiếc ngay cả bậc A-la-hán cũng không tránh khỏi sai lầm đó là không học lấy bài học của Đức Phật trong việc gạn lọc để phân chia sắp xếp Tỳ kheo vào Tăng đoàn của mình để tất cả những người đến đều nhập lưu, đều ly dục, đều chứng đắc. Vì thế, cho đến cuối cùng, không có được một học trò tiêu biểu để nói với tăng chúng rằng nơi đây là Chánh Pháp. Cả những lớp người nườm nượp đến tu viện cũng vậy, họ hăm hở như 750 Tỳ kheo kia, họ hoàn toàn chỉ có thể thiểu dục tri túc, không thể khác hơn, họ chỉ là lớp dự lưu khi mà chưa có được cái thánh hạnh, cái quyết tâm ly dục. Và do đó có lấy một người thừa tự, chứng đắc để những người còn lại trong số họ rất nhiều người trực tiếp hoặc gián tiếp trở thành những chiếc loa phỉ báng Trưởng lão không thương tiếc.
Các bạn nếu có thời gian để nghe những bức tâm thư mới thương cho vị Thầy đã dốc hết công sức cho các lớp học nhưng bù lại là những thất vọng ê chề tình trạng phá hạnh độc cư, gom nhóm trò chuyện, tình trạng không theo chỉ dẫn, công kích các vị thiện hữu tri thức, lén chỉ trích bậc thiện hữu tri thức v.v...Cứ theo đó bạn có thể hình dung một tập hợp đông đảo nhưng không chọn lọc.
Mọi nỗ lực của Trưởng lão chỉ để lại một thư viện quí giá và những pháp thoại, những lời tâm huyết. Tôi nhớ những năm tháng còn làm việc ở TTDS Bình Dương, mỗi ngày khi vào bàn làm việc lại được đọc dòng chữ trên kệ trước mặt: “Người học trò giỏi không phải là người lặp lại thầy mình mà là người biết đưa con đường của thầy vạch ra tới cái đích xa hơn”. Tiếp nhận Tu viện Chơn Như, thầy M.H tỏ ra là học trò giỏi. Vâng, một học trò được Trưởng lão nuôi dạy và hoàn toàn tin tưởng nhưng có lẽ không có thời gian, không có cái thánh hạnh, đức độ như chính Người mong đợi, gửi gắm để trở thành một A-la-hán để thừa tự sự nghiệp phục hưng Chánh Pháp.
Thầy Pháp Lưu - Làng tu Nguyên Thuỷ Yên Bái mỗi khi nhắc đên Tu viện Chơn Như, ông bảo: “ Nơi ấy xưa Trưởng lão đã dự đoán rồi. Nó sẽ chỉ còn là thánh tích mà thôi”. Tôi cho đó là lời nhận xét cực đoan, phiến diện.
Con đường của Đức Phật của Trưởng lão đang được nhiều người tin tưởng, miệt mài học tập, bám đuổi nhưng vẫn còn thiếu qui củ, óc tổ chức. Sẽ có nhiều người trong số họ không bận tâm đến thị phi, cứ lẳng lặng tu tập. Dù chưa có một người chứng đắc A-la-hán nhưng chắc chắn nếu có sự vào cuộc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ tổ chức sát hạch xem xét theo đúng lộ trình rất cụ thể của Trưởng lão để công nhận ta sẽ có rất nhiều tu sinh hoàn thành giới luật, thiền định…(với các bậc sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền). Không cần nhiều, chỉ cần công bố ta có những tu sinh lọt vào số 320 Tỳ kheo như trong Tăng đoàn Đức Phật, cũng đủ là lời công bố: Nơi đây là Chánh Pháp.
Mặc dù không phải là một học thuyết về đạo đức nhưng những triết lý nguyên thủy của Phật giáo đã dạy con người biết nguyên nhân của nỗi khổ và con đường giải thoát đau khổ bằng quá trình hướng thiện. Trên phương diện đạo đức học, triết lý đạo đức Phật giáo được coi là một đường lối sống, mội phương thức sống, một trìết lý sống, một cách tu dưỡng thân tâm để thực hiện lẽ sống, hướng tới Niết Bàn, tìm con đường thoát khỏi bể khổ trần gian. Tuy nhiên, sự giải thoát ấy không phải dựa vào một thế lực bên ngoài mà bản thân mình phải tự thực hiện lấy, như lời Phật dạy: Hãy tự mình là ngọn đèn soi sáng cho mình, hãy tự mình tạo cho mình chỗ nương tựa, và đừng nương tựa vào ai ngoài bản thân mình. Trước khi có sự du nhập của Phật giáo, tại Việt Nam đã có một nền văn hóa với các tín ngưỡng bản địa khá phong phú. Một trong những nguyên nhân khiến Phật giáo dễ dàng được tiếp nhận, có sức sống lâu bền tại Việt Nam vì trong nó chứa đựng những nội dung nhân sinh quan phù hợp với tâm thức, bản sắc văn hóa người Việt. Từ khi du nhập vào Việt Nam cách đây trên dưới hai nghìn năm, Phật giáo đã hòa nhập vào đời sống dân tộc không phải chỉ trong một giai đoạn, một thời đại mà trong suốt cả trường kỳ lịch sử lâu dài. Trải qua nhiều triều đại phong kiển, mối quan hệ giữa Phật giáo và nhà nước luôn được củng cố vì chúng song hành cùng tồn tại và phát triển, không bao giờ diễn ra sự tranh chấp giữa giáo quyền và thế quyền. Vì vậy, Phật giáo không chỉ ăn sâu vào đời sống tâm linh mà còn đi vào văn hóa dân tộc, trong đó có đạo đức con người Việt Nam. Ngay từ khi truyền bá vào nước ta ở đầu thời Bắc thuộc, Phật giáo đã chứng tỏ tính ưu việt của mình, giúp nhân dân bản địa tìm được hệ tư tưởng mới làm đối trọng với hệ tư tưởng Nho giáo của chế độ phong kiến Trung Quốc lúc bấy giờ. Những tư tưởng của đạo Phật đã dần ăn sâu vào tâm thức người Việt, khích lệ nhân dân chống lại ách đô hộ của phong kiến phương Bắc và thực hiện thành công hàng loại cuộc kháng chiến bảo vệ chủ quyền đất nước. Chính vì thế, đạo đức Phật giáo đã trở thành luân lý sống của các Phật tử và đông đảo các tầng lớp trong xã hội, từ vua chúa, thiền sư, quan lại đến quần chúng nhân dân. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, trong bảng giá trị truyền thống Việt Nam, tư tưởng yêu nước là giá trị đạo đức tinh thần hàng đầu, được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Biểu hiện đầu tiên, rõ rệt nhất của lòng yêu nước là tinh thần độc lập dân tộc, ý thức đòi quyền tự chủ, tự do và bình đẳng cho nước nhà. Lòng yêu nước còn thể hiện ở sự anh dũng, bất khuất trước kẻ thù, sẵn sàng hy sinh tính mạng cá nhân để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Như chúng ta đã biết, trong Ngũ giới, Phật giáo cấm sát sinh, thực chất là cấm giết người, cấm giết các sinh vật khác một cách cố ý, đồng thời luôn đề cao và tôn trọng sự sống Phật giáo có tư tưởng hòa bình, với cái tâm từ bi, lương thiện. Tuy nhiên, Từ bi của Phậi giáo gắn liền với Trí, Dũng, tức là phân biệt thiện - ác, đúng - sai và dám đấu tranh bảo vệ chính nghĩa. Chính vì vậy, “trừ bạo” để cứu người, cứu dân tộc không phải là việc làm sai. Phật giáo căn cứ vào động cơ, mục đích của hành động để phân biệt thiện - ác. Hơn nữa, theo quan niệm của Bồ Tát giới, thấy người bị hại mà không cứu cũng là phạm giới nên việc sẵn sàng chống giặc ngoại xâm đế cứu đồng bào, giải phóng dân tộc lại được xem là việc thiện, việc nhân nghĩa. Đúng như một tác giả đã viết: “Thiện lớn, đức lớn, hợp thời đúng lúc, tùy nghi lúc này là ở cứu dân tộc, quê hương đất nước khỏi cái thảm họa là nạn ngoại xâm. Vì cái thiện lớn, đức lớn đó mà các Phật tử sẵn sàng cầm gươm lên ngựa, sẵn sàng vi phạm giới luật (cấm sát sinh), giết một người để cứu muôn người. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, những người Phật tử không thể giáo điều máy móc ôm khư khư giới luật mà không được giết hại chúng sinh trong đó có cả kẻ thù, quân xâm lược giếi hại đồng bào. Không thể vì một điều thiện nhỏ cho cá nhân mà quên điều thiện lớn cho dân tộc, ở đây phá giới là theo tinh thần phá chấp" |l]. Nếu so sánh đạo đức Phật giáo với đạo đức người Việt với nét nổi bật là tinh thần yêu nước thì thấy có nhiều điểm tương đồng: Nhân sinh quan Phật giáo đã hòa quyện với tư tưởng yêu nước Việt Nam, từ đó, tinh thần từ bi, bác áì được thể hiện thành tinh thần nhân nghĩa. Theo giáo sư Trần Văn Giàu: "Mặc dủ Phật giáo không có chủ nghĩa yêu nước, nhưng đạo Phật Việt Nam tách khỏi chủ nghĩa yêu nước thì không còn giá trị gì hết” [2] Về triết lý sống, nhân sinh quan Phật giáo cũng khá gần với tư tưỏng, tâm hồn người Việt, đặc biệt là tinh thần nhân nghĩa, đạo lý từ bi, tinh thần hòa hiếu. Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục ngữ rất phổ biến trong nhân dân, như “Lá lành đùm lá rách”, hay "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Ngưởi trong một nước phải thương nhau cùng"... Ngoài đạo lý Từ bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc cùa một đạo lý nữa trong giáo lý nhà Phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Trong đạo lý Tứ ân, ân cha mẹ được coi là quan trọng nhất và có ảnh huởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của người Việt Nam, điều này phù hợp với nếp sống, đạo lý truyền thống của người Việt Nam. Nhìn chung, trong lịch sử, Phật giáo vào nước ta một cách hoà bình. Đạo Phật cũng không gây nên sự đảo lộn, hoặc phủ định những giá trị tinh thần, những phong tục, tập quán truyền thống cùa cộng đồng người Việt. Chính vì thế, Phật giáo dễ thâm nhập và thấm sâu vào tâm thức người Việt. Mối quan hệ giữa đạo đức Phật giáo với những giá trị đạo đức Việt Nam truyền thống là mối quan hệ hai chiều: Phật giáo ảnh hưởng đến văn hoá, đạo đức truyền thống, và ngược lại, những cơ sở, điều kiện kinh tế - xã hội bản địa đã tạo nên nhiều nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam. Có thể nói, đạo đức Phật giáo đã thực sự ăn sâu vào đạo lý truyền thống dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của con người. Người Việt tiếp nhận đạo Phật không phảỉ chỉ là những nội dung triết lý ẩn chứa trong đó, mà quan trọng hơn là những hành vi đạo đức mang tính hướng thiện. Họ tiếp thu Phật giáo không phải với tư cách là một hệ tư tưỏng với các giáo lý cao siêu mà là những điều rất gần gũi với tâm tư, tình cảm của mình, mang tính nhân bản sâu sắc. Phật giáo vì thế từ yếu tố ngoại sinh đã lan tỏa rộng rãi, từng bước hòa nhập với nền văn hóa dân tộc, tác động mạnh mẽ đến nếp sống của mỗi con người và trở thành yếu tố nội sinh góp phần thúc đẩy sự vận động và phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam truyền thống.
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://nukeviet.vn là vi phạm bản quyền
Hồi trước, đoàn cải lương Thanh Minh - Thanh Nga ra được bốn giai phẩm khá hay, mỗi năm ra một kỳ từ năm 1964 mà cụ Vương Hồng Sển có nhắc đến trong cuốn hồi ký “Năm mươi năm mê hát”.
Khi còn lục lọi sách báo xưa ở đường Nguyễn Thị Minh Khai cuối thập niên 1990, tôi được nghe người bán sách cũ cho biết về những tập sách nghe có vẻ thú vị này, nhưng không tìm đâu ra để đọc. Cuối cùng, sau gần hai mươi năm, một người bạn ở nước ngoài đã gửi về bản chụp đủ cả bốn tập.
Chuyện nghệ sĩ sân khấu làm báo, viết báo tuy hiếm nhưng không phải không có. Năm 1955 và 1956, một bài trên tờ Thời Nay cho biết đã có hai số báo Xuân do nghệ sĩ Tường Vi chủ biên, đăng cả phần lý lịch về các đào kép và soạn giả cải lương. Năm 1962, nghệ sĩ Thành Được làm tờ “Xuân Cải Lương”, được cho là “rất đáng khen về mặt kỹ thuật”. Rất tiếc hầu như không ai biết mặt mũi cuốn này ra sao.
Giai phẩm Thanh Minh - Thanh Nga có bốn tập nhưng không rõ ra được có vậy thôi hay còn tập nào nữa. Mỗi tập dày cả trăm trang. Chủ biên là Trần Đình Thuyên, tổ chức bài vở dưới quyền của bà bầu Thơ, trưởng đoàn.
Tập đầu tiên kỷ niệm năm thứ 14 sáng lập đoàn (29.5.1950 - 29.5.1964) và tập cuối kỷ niệm lần thứ 17 (29-5-1967). Năm 1964, đang giữa giai đoạn có thể nói là cực thịnh của đoàn Thanh Minh – Thanh Nga sau 14 năm tồn tại, được coi là đoàn cải lương “sống dai nhứt” thời đó nên những người sáng lập quyết định ra tờ giai phẩm đầu tiên.
Bốn cuốn giai phẩm ra liên tiếp từng năm này dễ được hình dung là ấn phẩm nghiệp dư, lưu hành nội bộ của các nghệ sĩ không quen viết lách. Nhưng cho dù hình thức không bắt mắt như tờ báo chuyên nghiệp, đọc qua mới thấy số người viết gạo cội thời đó tham gia bài vở khá nhiều như: nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển, nhà văn Bình Nguyên Lộc, nhà văn Sơn Nam, nhà văn kiêm soạn giả Ngọc Linh, nhà văn Thanh Nam, nhà báo Trần Tấn Quốc, nhà thơ Kiên Giang, nhà thơ Mộng Tuyết, nhà văn Sĩ Trung,…
Ngoài ra còn có một số bài viết khác của soạn giả nổi tiếng trong đoàn hay cộng tác với đoàn như các soạn giả Năm Châu (với bài tùy bút Hạnh phúc sân khấu, tập 16), Hà Triều, Hoàng Khâm, Nguyễn Phương và các bài tâm sự, suy nghĩ về nghề nghiệp của nghệ sĩ Hoàng Giang (Bài học bản thân), Việt Hùng – Ngọc Nuôi (Kỷ niệm vui buồn), Hữu Phước (Tôi chỉ là đứa con nghệ thuật).
Bài viết “Một ánh sao rơi” của nhà văn kiêm soạn giả Ngọc Linh (tập 15) là một bài viết có giá trị tư liệu về nghệ sĩ Tư Út là kép chính của đoàn Phụng Hảo có tiếng một thời đã mất trên đường lưu diễn ở Nam Vang năm 1947 khi diễn cùng với nghệ sĩ Phùng Há.
Tập kỷ niệm năm thứ 17 (tập cuối), công bố một tư liệu quý là “Nhựt ký” của cố nghệ sĩ Năm Nghĩa, chồng của bà Bầu Thơ và cha dượng của nghệ sĩ Thanh Nga.
Nhà báo kỳ cựu Trần Tấn Quốc giữ tập nhật ký này sau khi bầu Năm Nghĩa mất năm 1959, công bố sau tám năm. Trong đoạn trích, người đọc thấu rõ nỗi lo lắng của Năm Nghĩa trong hoàn cảnh lận đận của đoàn Thanh Minh lúc vừa được hai tuổi, đang là trưởng đoàn ông tự thấy có trách nhiệm với gia đình và đoàn hát, khi còn cha mẹ, vợ yếu con thơ, hai con là dưỡng nữ Thanh Nga vừa mới lên mười, Bảo Quốc còn đang chập chững.
Ảnh tư liệu vai diễn của Nghệ sĩ Thanh Nga
Bài viết “Nhận xét về Bảo Quốc” dự báo về một tài năng nghệ thuật sau này. Tác giả “Người Áo Xanh” điểm qua các vai của ông: cậu bé trong vở “Thầy cai tổng Bồi”, cậu Tiết trong vở “Bóng chim tăm cá”, cho đến vai công tử trong “Người dừng chân đêm mưa” khi đã bắt đầu thủ vai người lớn. Lúc đó, ông chưa diễn hài nên bài viết còn hy vọng về những vai chính kịch đang diễn, không nhắc đến vai hài nào.
Truyện ngắn “Người nghệ sĩ già trong khám tối” đáng được đăng trong một tờ báo xuân. Tác giả Trần Đình Thuyên viết về một nhóm tử tù hơn năm mươi người tổ chức một đêm hát cải lương trong tù với tuồng tích về một tên thực dân và người dân thuộc địa. Truyện đơn giản mà cảm động trong những đoạn mô tả một nhóm tù hát cải lương, mỗi người bị cùm một góc mà đóng vai của mình khiến khán giả trong khám tối phải quay đầu liên tục để theo dõi diễn tiến câu chuyện.
Những bài viết như hồi ký “Nhập cát sô” (Trần Đình Thuyên, 16), “Bàn về thành kiến xướng ca vô loại” (Sơn Nam, 16) “Nhật ký của Năm Nghĩa”, “Nhớ bà Bầu” (Trần Tử Văn, tức Trần Tấn Quốc, sao lục ở tập 16 và bài viết ở tập 17), “Nghệ sĩ trong khám tối” (Trần Đình Thuyên, 17), “Nợ tằm” (Truyện ngắn Sĩ Trung, 17) đều là những bài đặc sắc, có phát hiện mới, có thể đăng trên các giai phẩm đặc biệt của báo chí thời ấy.
Các bài viết về nghề nghiệp được chú trọng. Từ số 17 ra đời năm 1967, chủ trương của bà bầu Thơ là: “chúng tôi muốn đưa nội dung tập giai phẩm lên một mức cao hơn mọi năm: phản ánh sinh hoạt của đoàn là phần phụ, nói lên những vấn đề liên quan đến sân khấu là phần chánh” (lời trưởng đoàn).
Do đó, có hàng loạt bài theo định hướng này xuất hiện như : “Đoàn hát của bà bầu Thơ tiêu biểu với sắc thái độc đáo: Tuồng xã hội” của Phong Vân, “Những cảm nghĩ của nghệ sĩ Út Trà Ôn” của Phi Sơn, “Nghệ sĩ và quần chúng” (Thành Được ghi lại cuộc đối thoại giữa nghệ sĩ Năm Châu và Cẩm Thi), “Tại sao Thành Được chiếm huy chương vàng giải Thanh Tâm” (Cẩm Thi), “Thanh Nga và vở tuồng Sân khấu về khuya” (Phi Sơn), “Luật pha màu” (Loka - họa sĩ sân khấu), “Diễn viên, người là ai?” (Soạn giả Ngọc Linh), “Đặc tính của cải lương miền Nam” (Huy Trường), “Hai tiếng cải lương” (Thành Được), “Xã hội trên sân khấu” (Duy Tích)… trao đổi về các vấn đề học thuật sân khấu, như xuất phát cải lương từ đâu, cải lương khác ca kịch và thoại kịch thế nào, phân tích nghệ thuật diễn xuất của các nghệ sĩ nổi tiếng có thành tựu trong diễn xuất, hoặc bàn về kỹ thuật thiết kế sân khấu.
Đến số thứ 4, giai phẩm này đã lớn lên dần biến thành một tờ tạp chí của giới sân khấu miền Nam trước 1975.
Vì sao các tập giai phẩm này có thể thu hút nhiều cây bút lớn của Sài Gòn thời đó như vậy? Trước hết đó là tầm ảnh hưởng của đoàn cải lương Thanh Minh - Thanh Nga, đứng đầu lúc ấy về tuồng xã hội với các vở diễn nổi tiếng như Mưa rừng, Nửa đời hương phấn, Sân khấu về khuya, Đôi mắt người xưa, Tấm lòng của biển... Quy tụ nhiều soạn giả tài danh như Tư Trang, Năm Châu, Duy Lân, Kiên Giang, Hà Triều - Hoa Phượng, Nguyễn Phương,.. và các nghệ sĩ hàng đầu như Út Trà Ôn, Hoàng Giang, Thanh Nga, Thành Được, Út Bạch Lan, Chí Hiếu, Bảo Quốc, trong đó các nghệ sĩ Thanh Nga, Thành Được đều đoạt giải sân khấu Thanh Tâm.
Ảnh tư liệu vai diễn của Nghệ sĩ Thanh Nga
Đoàn trở thành đoàn cải lương có quy mô lớn, được ái mộ nhất miền Nam và thường xuyên được chính phủ miền Nam đưa ra quốc tế diễn đại diện văn nghệ quốc gia. Bà Bầu Thơ giỏi điều hành đoàn hát đến độ giới sân khấu gọi bà là “bầu của những ông Bầu, bà Bầu”.
Đọc qua bốn tập giai phẩm này, thấy rõ tình cảm của các cây bút góp mặt, từ các cây bút lão thành như nghệ sĩ Năm Châu, Trần Tấn Quốc... đến các tác giả trẻ đều thể hiện sự quý mến đoàn hát, kính trọng và nể phục bà Bầu Thơ, yêu mến cô con gái, nghệ sĩ tài danh Thanh Nga. Họ tự hào về đại ban này, như trong bài mở đầu giai phẩm đầu tiên với bài thơ của soạn giả Hoa Phượng: “14 năm cát bụi lầm/ 14 năm mấy thăng trầm biển dâu/14 năm mấy nhịp cầu/ cầu mười bốn nhịp: bảy sầu, bảy vui…/”. Và ông kết luận: “Trên trời: sao lạ ngàn ngàn/ Dưới trời: sân khấu đứng hàng đầu sao!”.
Ảnh tư liệu vai diễn của Nghệ sĩ Thanh Nga
Điều thú vị, trong mấy tập này có vài bài thơ của ngôi sao sân khấu Thanh Nga như các bài “Nguyện cầu”, “Bài ca 16”. Lúc đó, cô hơn hai mươi tuổi nhưng giọng thơ còn trong trẻo như thơ học trò. Bài thơ “Bài ca 17” là tâm sự về đời nghệ sĩ trong giai phẩm thứ 4, kỷ niệm năm thứ 17 (1967):
Lời khen chê nghe chừng nhiều lắm
Đường nghệ thuật thênh thang thăm thẳm
Bước đi hoài chưa thấy chồn chân
Mai này trên chặng đường mười tám
Sau tập 17, đoàn Thanh Minh - Thanh Nga còn ra tiếp giai phẩm nào không? Sau đó là chiến cuộc năm Mậu Thân khiến các đoàn hát tạm ngưng hoạt động. Vài năm sau, đầu thập niên 1970, phim Hồng Kông tràn ngập thị trường giải trí miền Nam, làm ảnh hưởng nặng nề đến sự tồn vong của giới sân khấu từ cải lương đến thoại kịch. Nhiều đoàn phải dẹp tiệm, rã gánh.
Đoàn cải lương Thanh Minh – Thanh Nga không nằm ngoài quy luật, sống lay lắt cho đến năm 1975.
Các bài viết trong bốn cuốn giai phẩm trên giúp lưu giữ những kỷ niệm trong nghề và tình mến mộ của khán giả đối với đoàn Thanh Minh – Thanh Nga suốt một phần tư thế kỷ, từ khi thành lập vào năm 1950 cho đến năm 1975, dù lúc thăng lúc trầm. Sau đó sức hút của đoàn còn duy trì trong vài năm nữa cho đến khi nghệ sĩ Thanh Nga nằm xuống năm 1978.
(Trích "Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm" - Công ty Phan Book xuất bản)